Sách - Thiết lập tịnh độ - Kinh A Di Đà thiền giải - Thích Nhất Hạnh


129.000 ₫ 95.460

Sản phẩm Sách - Thiết lập tịnh độ - Kinh A Di Đà thiền giải - Thích Nhất Hạnh đang được mở bán với mức giá siêu tốt khi mua online, Vừa được giảm giá từ 129.000 xuống còn ₫ 95.460, giao hàng online trên toàn quốc với chi phí tiết kiệm nhất,0 đã được bán ra kể từ lúc chào bán lần cuối cùng.Trên đây là số liệu về sản phẩm chúng tôi thống kê và gửi đến bạn, hi vọng với những gợi ý ở trên giúp bạn mua sắm tốt hơn tại Pricespy Việt Nam

Thông tin phát hành:
Tác giả: Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Nhà xuất bản: Hà Nội
Giá bìa: 129,000
Số trang: 216
Ngày phát hành: 2020

Kinh A Di Đà là một kinh Đại thừa, thuộc về nền Phật giáo Phát triển. Đạo Bụt giống như một cây đại thọ và cũng là một thực tại sinh động. Bất kỳ một cái gì đang sống cũng phải lớn lên. Một cây đang sống thì ngày nào cũng cho thêm cành, lá; cành dài ra thêm, lá mọc nhiều thêm. Có cành mới, lá mới, hoa mới và trái mới thì cây đạo Bụt mới là một thực tại linh động, một cái gì đang sống. Vì vậy, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, đạo Bụt phải phát triển thêm. Đạo Bụt Đại thừa là những hoa trái phát triển từ cội nguồn Phật giáo Nguyên thuỷ.
Mình không muốn đạo Bụt là một cái xác khô nằm trong viện bảo tàng mà là một thực tại sống động, mỗi ngày đều có thêm sức sống. Và vì vậy, mình phải chấp nhận rằng cây Phật giáo mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm phải có thêm cành mới, lá mới. Đạo Bụt phát triển không ngừng nhưng vẫn là đạo Bụt như thường.
Kinh A Di Đà hiện giờ đang được đọc tụng ở khắp các chùa, dù là chùa Thiền tông, vì kinh A Di Đà trình bày một giáo lý rất dễ thực tập. Những người không có căn trí lớn, những người không đủ Niệm, Định, Tuệ cũng có thể thực tập được kinh A Di Đà. Nói như vậy không có nghĩa là những người có căn trí lớn thì không thực tập được. Tại vì kinh A Di Đà có thể được hiểu rất sâu, cũng có thể được hiểu rất cạn. Người hiểu sâu cũng có thể thực tập, người hiểu cạn cũng có thể thực tập. Vì vậy chúng ta phải học kinh A Di Đà bằng một nhận thức hết sức cởi mở, bởi vì kinh A Di Đà là một giáo pháp có tính cách phổ biến. Người căn trí lớn thực tập cũng được mà người căn trí nhỏ hẹp thực tập cũng được.

Khi người có căn trí lớn niệm “Nam mô A Di Đà Phật” hay là “Nam mô Bụt A Di Đà” thì sở kiến và sở đắc rất lớn lao. Khi người có căn trí nhỏ hẹp niệm “Nam mô A Di Đà Phật” thì tuy người ấy cũng có sở kiến và sở đắc nhưng có thể sở kiến và sở đắc ấy nhỏ bé hơn. Niệm Bụt, ta có thể đạt tới Niệm, Định và Tuệ rất cao. Ta cũng có thể niệm Bụt mặc dù năng lượng Niệm, Định và Tuệ chưa hùng hậu. Hiệu quả của câu niệm Bụt lớn hay nhỏ là do cách hành trì của chúng ta. Hiệu quả lớn hay nhỏ là do Niệm và Định vững chãi nhiều hay ít.

Mục lục:

-Bụt tại mười phương
-Vài chi tiết về kinh A Di Đà
-Tịnh nhiễm do tâm
-Khổ vui tương tức
-Diệu dụng pháp thân
-Tích môn và bản môn
-Đạo tràng lý tưởng
-Gió chim thuyết pháp
-Tạo lập Tịnh Độ
-Nắm lấy danh hiệu
-Đã về đã tới
-Hoa sen chín phẩm
-Thiền tịnh không hai
-Gạn đục khơi trong
-Ba nguồn năng lượng
-Kinh A Di Đà

Trích đoạn sách:

Vài chi tiết về kinh A Di Đà

Trước khi đi vào kinh A Di Đà, chúng ta phải biết một vài chi tiết.

Thứ nhất, trong đạo Bụt Nguyên thuỷ, phương pháp Niệm Bụt đã là một phương pháp rất quan trọng. Niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên đều là những phương pháp thực tập có ngay trong thời Bụt tại thế. Phương pháp này được gọi là Tùy niệm và ngay trong thời Bụt tại thế đã có nhiều Phật tử thực tập niệm Bụt. Đức Thế Tôn có vững chãi, có thảnh thơi, có từ bi, có hỷ xả và mỗi khi nhớ tới Đức Thế Tôn thì tự nhiên mình thấy trong người khỏe, có được tính vững chãi, tính thảnh thơi của Đức Thế Tôn. Cho nên thời bấy giờ có nhiều người niệm Bụt. Người ta thường chắp tay và đọc: “Namo tassa bhagavato arahato sammà sambuddhassa” (Kính lạy Đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, bậc Chánh Biến Tri). Bhagavato: Thế Tôn, Arahat: Ứng Cúng, và Chánh Biến Tri là Sammà Sambuddhassa. Và sau đó, người ta tụng mười danh hiệu của Đức Thế Tôn: ‘‘Đức Như Lai là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Bụt, Thế Tôn”. (Trong quyển Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000, quý vị sẽ thấy có bài “Xưng Tán Tam Bảo”, bên trái là tiếng Hán Việt và bên phải là tiếng Pali.)